Việc từ chối bảo hộ một nhãn hiệu với lý do trùng hoặc
tương tự gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu đã được đăng ký trước (nhãn hiệu đối chứng)
xuất phát từ quy định về điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ đó là
“có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa,
dịch vụ của chủ thể khác”. Để vượt qua lý do từ chối, người nộp đơn đối với đơn
nhãn hiệu xin đăng ký thường cung cấp Thư Đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu đối
chứng, trong đó thường có các nội dung: (i) cho phép người nộp đơn nhãn hiệu
đang được xem xét được sử dụng và đăng ký yếu tố trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn
với yếu tố có trong nhãn hiệu đối chứng và (ii) cam kết rằng sẽ không có bất kỳ
tranh chấp nào phát sinh và chịu mọi trách nhiệm về nội dung của việc cho phép
này.
Các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam từ
trước đến nay đều không có quy định nào đề cập đến Thư Đồng ý (Letter of
consent). Trên thực tế, nhiều trường hợp Thư Đồng ý được chấp nhận như một căn
cứ để vượt qua lý do từ chối. Tuy nhiên, trường hợp nào Thư Đồng ý được chấp nhận,
trường hợp nào không được chấp nhận vẫn đang là vấn đề cần tiếp tục được thảo
luận để có thể áp dụng thống nhất trong quá trình thẩm định đơn.
Chức năng của nhãn hiệu một mặt bảo vệ quyền và lợi ích
của chủ sở hữu nhãn hiệu đó, mặt khác còn bảo vệ người tiêu dùng trong việc
phân biệt hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Theo đó, nguồn gốc thương mại của
hàng hóa, dịch vụ được cung cấp trên thị trường được phân biệt dựa vào các nhãn
hiệu được gắn lên hàng hóa, dịch vụ. Hay nói cách khác, chính nhãn hiệu là dấu
hiệu cơ bản để người tiêu dùng phân biệt các nhà sản xuất/nhà cung ứng hàng
hóa, dịch vụ đó. Trong đó, khả năng phân biệt của một nhãn hiệu là chính bản
thân nhãn hiệu đó chứ không phải là một yếu tố nào khác.
Thư Đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu đối chứng chỉ là sự
cam kết của chủ sở hữu nhãn hiệu đối chứng đó với chủ đơn nhãn hiệu xin đăng ký
về việc cho phép đăng ký nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu của mình.
Sự cam kết đó chỉ là một sự đảm bảo cho việc không phát sinh tranh chấp giữa chủ
sở hữu nhãn hiệu đối chứng với chủ đơn nhãn hiệu xin đăng ký. Như vậy, bản thân
sự cam kết trong Thư Đồng ý không thể đảm bảo rằng nhãn hiệu đối chứng có khả
năng phân biệt với nhãn hiệu xin đăng ký và người tiêu dùng không nhầm lẫn khi
lựa chọn các sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu của hai chủ thể này.
Để hoàn thiện các quy định pháp luật cũng như thống nhất
các nguyên tắc áp dụng quy định pháp luật phù hợp với thực tiễn xác lập quyền đối
với nhãn hiệu tại Việt Nam, Cục Sở hữu trí tuệ đang tiền hành thăm dò ý kiến
các đại diện sở hữu công nghiệp để giúp Cục có cái nhìn thực tiễn và tổng quát
hơn về vấn đề này.